Khám phá về giỗ hết ( đại tường) – Những điều cần làm

Phạm Trường Hà 22/02/2025

Khám phá về giỗ hết ( đại tường)

Người ta còn gọi là giỗ đoạn (lành nhiều), giỗ hết tang (hoặc đoạn tang) có nghĩa là đúng hai năm kể từ ngày chết, và là giỗ lần thứ hai, được coi là chấm dứt (hết việc). Mặc dù hết việc, nhưng theo tục lệ, phải hai ba tháng sau, người ta chọn một ngày để làm lễ trừ phục, hay còn gọi là lễ đàm (đầm tế ) thì mới thực sự là hết việc. Gọi là lễ trừ phục bởi vì sau lễ này, tất cả các đổ tang phục đều được đem đốt. Từ đấy, những người để lang trong nhà mặc lại thường phục như trước kia.

Cũng trong ngày “lễ đàm tế”, người ta rước linh vị vào bàn thờ chính, bỏ bàn thờ tang (thờ vong). Linh vị mới thường phải được chép sẵn từ trước. phủ giấy hay vải đỏ. Khi “đàn tế” ở bàn thờ lang xong thì đốt linh vị cũ, đốt cả băng đen phủ khung ảnh và văn tế. Sau đó, rước linh vị, bát hương, ảnh chân dung đặt lên bàn thờ chính, đặt ở hàng dưới.

Thực tế là thời gian từ “đại tường” tới lễ “trừ phục” (lễ đàm) chỉ trong vòng 3 tháng trở lại, cộng với 2 năm trước, là hai mươi bảy tháng. Dân gian có câu vợ khóc chồng rằng: “Ba năm hai mươi bảy tháng chàng ơi!”. Trong thơ văn Việt Nam, nhiều tác phẩm cũng nói tới thời gian này. Nữ sĩ Hồ Xuân Hương khóc chồng có hai câu kết như sau: “Hai mươi bảy tháng trời là mấy chốc. Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ơi!”. Như vậy, vợ để tang chồng cũng hai mươi bảy tháng, giống như con để tang cha mẹ.

Theo tập quán của nhân dân ta, thì sau khi đoạn tang (lễ đàm), bàn thờ người quá cổ mới được hủy bỏ và nhập vào bàn thờ chung. Bát hương sau khi đoạn tàng, mới được nhập vào bát hương chung của tổ tiên. Nếu không nhập vào bát hương chung, thì bát hương này phải nhỏ hơn và thấp hơn bát hương chung của tổ tiên.

Từ ngày giỗ đầu (tiểu tường), đến các giỗ những năm sau, việc cúng giỗ đều do người con trai trưởng thực hiện. Nếu người này đã chết thì do cháu đích tôn (tức cháu nội – con của anh cả) đảm nhiệm, vì rằng, hai người này là trưởng một chi nhánh trong họ. Những người con thứ, cháu thứ, con gái và cháu ngoại vẫn có bổn phận, và không thể quên được giỗ cha mẹ, ông bà. Những người con thứ. cháu thứ, con gái, cháu… trước ngày giỗ đều “gửi giỗ” bằng tiền mặt hoặc đem lễ vật đến cúng. Con cháu ở xa hay vì một lý do nào đó mà không về được, người ta cũng “gửi giỗ”, và thậm chí hàng xóm cũng “gửi giỗ”. Tiền mặt “gửi giỗ” hoặc lễ vật nhiều hay ít thường do khả năng tài chính của từng gia đình. hoặc do mối quan hệ gần hay xa giữa người sống với người chết. Ở xa không về được, dầu có “gửi giỗ” hay không cũng có thể làm giỗ ở nhà mình, gọi là cũng vọng, vì quan niệm “con ở đâu, cha mẹ ở đó”.

Đọc thêm: Tìm hiểu quan niệm về cõi chết của người Việt

Ngày giỗ, ngoài con cháu họ tộc, người ta vẫn mỗi bà con xóm phố, bè bạn thông gia… Khách khứa đến “ăn giỗ” luôn mang đổ lễ tới cúng, khá giả thì có nhiều thứ trên một cái măm, cái đĩa; nếu không thì chai rượu trắng cũng là quý. Ngày nay, một số khách đến đám giỗ còn đem thẻ nhang và cái phong bì (tiền) – (vì cũng không biết mua cái gì cho hợp), cũng là góp vào để tùy gia chủ mua sắm cho thiết thực. Tất cả lễ vật này đều được đặt trên bàn thờ trước khi khách làm lễ. Khách thắp hương, lễ trước bàn thờ (có thể lạy hoặc vải). Khi khách lễ, gia chủ phải tự thân đáp lễ. Ngoài tính cách lễ nghi, chuyện này còn có liên quan tới trình độ kiến thức của con người Việt Nam, và cũng là một phép xã giao, phù hợp với hành vi đẹp của thuật đối nhân xử thế (nếu hiểu theo quan điểm thời nay).

Lễ vật trong ngày giỗ thường bao gồm: rượu, các món ăn, hương hoa, oản quả, đổ mã… Nhiều gia đình còn chuẩn bị các món ăn mà lúc sinh thời, người quá cố ưa thích. Cúng giỗ phải có khẩn vãi. Người xưa có văn khấn riêng. Lời khẩn cho dầu thế nào, hương hồn người chết cũng cảm thông và hưởng những lễ vật của con cháu dâng lên. Khấn vãi do tâm thành mà có. Tâm có thành cả quý thần cũng chứng giám (Tâm động quỷ thần trù.

Ngày giỗ năm thứ hai, còn được gọi là giỗ hết.

Theo quan niệm dân gian, trong ngày giỗ hết, người ta cũng đốt mã cho người đã khuất và năm nay đốt lại nhiều hơn năm trước. Người ta tin rằng, đốt mã năm trước là mã biếu – vì người nhận đồ dùng của con cháu đốt trong ngày Tiểu tường phải đem biếu các ác thần, để tránh những sự quấy nhiều.

Cổ bàn trong ngày giỗ hết cũng linh đình hơn, vì rằng, sau ngày giỗ này, hương hồn người khuất sẽ thưa về thăm con cháu hơn trước đây, nên con cháu muốn dâng cũng thịnh soạn hơn. Khi đồ lễ đã bày đầy đủ lên bàn thờ, người chủ gia đình quần áo chỉnh tề, đốt đèn nến, thắp 3 nén nhang dâng cắm lên bát hương (bản thờ) ông Công ông Táo, rồi vái lạy, xin Thổ công, Thần linh cho phép hương hồn người quá cố về hưởng giỗ. Tiếp đó thắp hương dâng cắm lên bát hương gia tiên, và cuối cùng mới thắp hương dâng cắm lên bát hương ở ban thờ người quá cố. Sau một tuần nhang, người ta lại thắp thêm một tuần nhang nữa, khi gần tàn nhang thì vãi tạ, rồi hoá vàng.

Khi hoả vàng, không thể tùy tiện hoá ở đâu cũng được, mà phải chọn chỗ sạch sẽ, thuận tiện theo chiều gió. Nếu có chậu chuyển hoá vàng càng tốt, không thì phải chọn chậu nhôm hoặc chậu sắt tráng men (có thể lót tầu lá chuối để khỏi đen chậu). Khi vàng, tiền giấy cháy hết (tro vàng đang còn hồng) thì đổ vào một chén rượu cúng, hoặc phun vào một ngụm rượu (dẫn gian cho rằng làm như vậy, vàng và tiền ấy mới trở thành vàng thật và tiền thật ở thế giới bên kia. Như vậy, cõi âm mới nhận được số tiền, vàng và đổ mã, mà cõi dương chuyển đến.

Hoa vàng xong, mọi người ăn cỗ hưởng lộc của các cụ một cách vui vẻ. Trước khi ra về, mọi người được gia chủ gửi quà biếu cho các cháu ở nhà, với ý nghĩa cho con cháu ai cũng được hưởng lộc. Những ngày giỗ sau ngày giỗ hết chỉ là những ngày giỗ thường hay kỳ nhật, và việc cúng lễ sẽ cử hành như những người đã qua đời trước. Vì vậy, ngày giờ hết là ngày giỗ quan trọng nhất trong tất cả những ngày giỗ đối với người qua đời vì nó đánh dấu một bước ngoặt trong cuộc đời của người còn sống cũng như đối với vong linh của người đã khuất. Với người dang sống là thời kỳ hết tang, người là trở lại đời sống thường nhật (thời xưa, chỉ sau khi hết tang, người vợ giả mới có thể đi bước nữa, con cháu mới được tham gia các hội hè, đình đám…).

Những ngày giỗ từ năm thứ ba trở đi, người ta gọi là ngày giỗ thường hay cát kỵ. Nếu giỗ tiểu tường và giỗ đại tường là lễ giỗ trong vòng tang, còn mang nặng những xót xa, tủi hận, bị ai thì ngày giỗ thường lại là ngày sum họp của con cháu nội, ngoại. Đây là dịp để mọi người trong gia đình, họ tộc gặp nhau, thăm viếng sức khoẻ và cố kết cộng đồng, gia đình. dòng họ.

Tùy phong tục của từng địa phương, từng dân tộc, từng gia cảnh mà việc tổ chức ngày giỗ có khác nhau. Điều quan trọng là nhân ngày này, thế hệ con cháu tưởng nhớ đến người đã khuất, thể hiện lòng thành với vọng linh tổ tiên. Nếu như nén hương, chén nước, đĩa muối, lưng canh mà thành tâm thì cũng giữ được đạo hiếu và lòng biết ơn tổ tiên. Cúng giỗ người đã về Tây Phương Cực Lạc cốt thể hiện lòng “nhân”, đạo “hiếu”, tấc đạ “thủy chung” của những người đang sống. Đấy cũng là nét đạo lý làm người trong truyền thống văn hoá Việt Nam.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *